TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
CHẾ LAN VIÊN - NGƯỜI BẮN 'PHÁO HOA TRÍ TUỆ' Ở THỂ THƠ TỨ TUYỆT
CHẾ LAN VIÊN - NGƯỜI BẮN 'PHÁO HOA TRÍ TUỆ' Ở THỂ THƠ TỨ TUYỆT
NGUỒN: Vanvn- Cập nhật ngày: 22 Tháng tư, 2025 lúc 11:50
VÕ VĂN LUYẾN
Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan. Quê Cam Lộ, Quảng Trị. Xuấthiện từ phong trào Thơ mới, Chế Lan Viên tự mình làm nên một cái đỉnhtrong làng thơ Việt hiện đại, không lẫn với bất kì ai khác.
Nói đến Chế Lan Viên là nói đến thơ tứ tuyệt. Hình như cụm từ “tứ tuyệt Chế Lan Viên “trở thành một định ngữ khó thay đổi, bởi thơ ông đơm hoa kết trái ở thể tứ tuyệt”. Không một ai cùng thời sánh bằng, trên cả hai mặt số lượng và chất lượng. “Cái lớn của một nhà thơ là khả năng tự mình trở thành đối tượng”, câu nói của Johan Becher vận vào Chế Lan Viên rất đúng. Ông nổi tiếng bằng sự xuất hiện như một bất ngờ, đột biến trong cả ba giai đọan. Từ buổi đầu có mặt “như một niềm kinh dị” (Hoài Thanh) đến giữa giai đọan được đánh giá là một trong hai nhà thơ trữ tình chính trị (cùng với Tố Hữu) vào loại tiêu biểu nhất của nền văn học mới. Giai đọan thứ 3, giai đoạn cuối đời lại tụ kết “hóa nên trầm” trong thể tứ tuyệt. Đấy là nhìn bao quát và chia cắt theo lối cơ học. Còn trong thực tế có trên 40 năm đắm mình trong sáng tạo, ông ưu tiên đáng kể cho tứ tuyệt bằng tâm huyết và trí tuệ tài hoa của mình.
Theo thống kê của PGS. TS Hồ Thế Hà, chỉ tính trong các tập: “Aïnh sáng và phù sa (36/69 bài), Đối thoại mới (45/68 bài) Hái theomùa (44/76 bài), Hoa trên đá (32/86 bài) Ta gửi cho mình (17/39 bài) … Những con số biết nói trên chứng minh điều tâm đắc, kỳ duyên của nhà thơ họ Chế đối với thể tứ tuyệt. Có lẽ từ trong trăn trở lột xác, tìm đường cho thơ tứ tuyệt, Chế Lan Viên đã mách bảo cái bí quyết làm nên thể thơ này. Theo ông tứ tuyệt không chỉ là thơ 4 câu mà phải có cái “thế võ” của nó. Đấy chẳng phải gì khác ngoài cái tứ – một đặc điểm trường tồn của sáng tạo thơ. Có điều, không có chất men tình cảm không thơ được, ở tứ tuyệt, chất men ấy thấm thật sâu vào trong suy nghĩ mới khởi động ra thơ. Sở dĩ chất trí tuệ trong tứ tuyệt của ông không khô khan nhờ ở cách của những chú “Ong triết học”:
Những chú ong triết học
Không biết say hoa người
Làm nên mật đạo đức
Chả hút gì ở môi
(Ong triết học)
Nhà thơ Chế Lan Viên
Tứ tuyệt Chế Lan Viên là một cái nhìn đa diện về thế giới và con người trong lối khắc phục hạn chế về hình thức nhỏ của thể loại bằng cách “mở rộng hiện thực bằng đề tài, sự chiếm lĩnh chiều sâu hiện thực bằng cách tăng tính triết lý khái quát ở chủ đề và sự thể hiện con người nhiều chiều”. Nói khắc phục hạn chế hình thức là so với các thể thơ dài. Còn bản thân tứ tuyệt không thể không thay đổi, điều mà ông quan niệm “Nội dung phải đâu muôn đời vẫn thế. Thay hình thức của thuyền đi, sẽ hiểu bể thôi mà!”, nhưng cũng nên thận trọng, vì “Tự do quá cũng giết chết thơ như gò bó” (Nghĩ về thơ).
Có người sẽ bảo: “Nước một đại dương không thể đựng trong một cái chén”. Quả thực, cái cách thức thơ muốn đạt đến là “đo” chứ không phải “đựng”: “Cái tội của muôn đời thi sĩ. Đem hồn đo cho trời bể thêm sâu” (Đo). Vì lẽ đó, hình thức tứ tuyệt đã được hiện đại hóa rất nhiều. Cái tài của tác giả Điêu tàn là phá vỡ cấu trúc tứ tuyệt cổ điển để tái thiết nên tứ tuyệt mới nhưng không những không làm giảm giá trị mà còn tăng cường sức mạnh và sự đa dạng hình thức thể hiện: Từ tiết tấu, vần điệu (có khi bỏ vần) đến việc huy động tối đa các phương thức tu từ, tạo đà, tạo thế cho tứ tuyệt phát triển. Có thể nói, thế giới qua cái nhìn của Chế Lan Viên bỗng trở nên lung linh sinh động. Tả một vầng trăng đẹp trong tự nhiên, thiên nhiên không giàu trí tưởng tượng, sáng tạo nghệ thuật sẽ không gieo được ấn tượng mạnh như thế này:
Giữa hai cây, lại đôi mắt em nhìn
Anh đến suối, mặt em cười dưới suối
Lòng anh chạy cho lòng em theo đuổi
Đêm ái tình đâu cũng mặt trăng em
(Trăng)
Từ tứ tuyệt và bằng tứ tuyệt, bài học kinh nghiệm quý giá không riêng cho một ai quan tâm đến sáng tác và tiếp nhận được Chế Lan Viên tượng hình trong một cấu trúc thơ độc đáo:
Những lá thơm hái lúc về già
Hái những lá có hương tư tưởng
Khi cây đã hóa trầm trong ruột
Lá đủ rồi, phải đợi gì hoa
(Nội dung và hình thức)
Có thể nói không quá rằng, một mình Chế Lan Viên đã xây dựng nên một lâu đài riêng về thơ tứ tuyệt Việt Nam hiện đại theo phong cách của tác giả. Ngẫm ra, hầu như ông khai thác và phát huy khá đầy đủ những đặc điểm nội dung và nghệ thuật thơ tứ tuyệt Vỉệt Nam hiện đại.
Trần Mạnh Hảo với con đường mở thơ tứ tuyệt Việt Nam hiện đại
Tứ tuyệt sau 1975 cho thấy sự đa thanh phức điệu trên cả hai phương diện nội dung và hình thức. Phương diện nào cũng được nhà thơ thử nghiệm hết mình, “vung lưới hết mình” (Chữ Chế Lan Viên) và kéo lên không ít “con cá vàng” tứ tuyệt. Đặc biệt, trong hai thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, tứ tuyệt đã “lót ổ” chắc chắn trong nền thơ Việt hiện đại và có nhiều thành tựu thực sự. Lời khẳng quyết này dựa vào đời sống thơ đang có, đang “đóng đinh” trong tâm lý và trong sáng tạo ở cả người sáng tác lẫn người tiếp nhận.
Về mặt lịch sử, các thi gia có con mắt tinh đời nhận ra sức mạnh, sức sống diệu kì của thể loại tứ tuyệt đã có từ hàng ngàn năm nay. Nhưng thơ tứ tuyệt Việt Nam hiện đại dường như tụ kết ở hai tác giả Chế Lan Viên và Trần Mạnh Hảo. Công bằng mà nói, khó có thể đối sánh một khi mỗi tác giả khai mở thơ tứ tuyệt theo mỗi hướng khác nhau nhìn ở quan niệm tính. Bởi thực chất của sáng tạo văn học là sáng tạo quan niệm.
Vì thế, thiết nghĩ người tiếp tục giữ gìn và phát huy bản sắc tứ tuyệt trong điều kiện cuối thế kỷ nhìn lại có lẽ là Trần Mạnh Hảo, nên chúng tôi chọn tác giả này để nhấn vào một phong cách tứ tuyệt mới lạ. Lạ ở chỗ Trần Mạnh Hảo sử dụng thể tứ tuyệt vốn hợp lối triết lý những vấn đề nghiêm chỉnh thì ông lại dùng như là để pha phách đùa cợt. Và còn nữa, nếu như Chế Lan Viên triết lý nghiêng về những vấn đề cao siêu, rộng lớn thì Trần Mạnh Hảo lại thích đi vào những chuyện tưởng như “nhỏ hơn sợi chỉ” nhưng không kém phần thú vị. Nói thế, không có nghĩa tứ tuyệt Trần Mạnh Hảo rơi vào chuyện vụn vặt mà những gì ở Trần Mạnh Hảo có sự “trùng phùng” với Chế Lan Viên ở tầng siêu nghiệm chúng tôi không nhắc lại nữa. Trần Mạnh Hảo như là người hoàn thiện thêm những gì Chế Lan Viên chưa làm. Có hiểu như thế mới chấp nhận sự đóng góp của một nhà thơ không kém tài hoa này.
Thế giới nghệ thuật thơ tứ tuyệt Trần Mạnh Hảo là những gì rất gần gũi, cụ thể, nhỏ bé: Một sợi tóc, sợi lông tơ, lọ mực, con ngựa gỗ, cái thớt, con ốc, tiếng gà, trâu, vạc, cò, sáo, xơ mướp, trái điều, trái bắp, quả roi, mận v.v… nhưng thông qua nó, nhà thơ phát hiện ra ý nghĩa của vấn đề tưởng chừng giản dị quen thuộc, tất nhiên nhưng không mấy ai nghĩ ra “cái lý” sinh tồn muôn thuở mà không cũ, bởi cái chính cần một nhịp cầu cảm thông tình người:
Đừng trách con vạc
Sao mày ăn đêm
Chao ôi đồng đất
Ban ngày như nêm
(Vạc)
Đôi khi một sự tìm hiểu trong đời không có nghĩa lý gì cả vì nó chẳng bồi đắp được gì lớn lao cao cả cho trí tuệ nhưng khi đau đớn nhận ra thì đã một thời gian đánh đổi vì nó:
Thuốc tễ ai phơi đầy mặt đê?
Tuổi thơ hí hửng nhặt đem về
Nhờ mẹ sau này tôi mới biết
Một thời lầm thuốc với phân dê.
(Thuốc tễ dê)
Với Trần Mạnh Hảo, dù quan tâm đến vấn đề lớn hoặc nhỏ, nhà thơ luôn đặt các sự vật trong quan hệ xa gần để kiến tạo nghĩa trực chỉ, ít đi vòng qua con đường gián cách của tưởng tượng.
Thơ tứ tuyệt cần đến sức mạnh cảm xúc, trí tuệ để làm “lóe sáng” nhiều vấn đề trong một bài thơ bốn câu, điều này đòi hỏi ở khả năng phát hiện, ở chỗ cần phục bút đúng lúc, ở chỗ chuyển hóa ý nghĩa của từ, tứ đắt, độc đáo và khéo thiết lập những quan hệ ở những sự vật mà theo phép logic thông thường không bao giờ có. Điều ấy đòi hỏi trí tuệ cao, tài năng lớn mới làm được. Không phải Trần Mạnh Hảo kém ở chỗ này, mà ông thiên về triết luận đời sống thông thường, còn Chế Lan Viên thiên về triết luận tư tưởng mang tầm khái quát những vấn đề lớn. Cho nên không đặt ra vấn đề so sánh ở đây, mà muốn chỉ ra Trần Mạnh Hảo đóng góp theo một chiều hướng đậm dấu ấn cuộc sống với một quan niệm gần với quan niệm nhận thức luận: “Thơ là tiếng nói hồn nhiên nhất của cuộc sống”, “thơ chính là tuổi thơ của loài người”, “nhà thơ là ông già nghìn tuổi ở trong đứa trẻ mới ra đời” (Nhà thơ). Tứ tuyệt Trần Mạnh Hảo là thứ thơ cắm rễ vào cuộc sống quanh mình, hít thở khí hậu quanh mình thật sự, không bay vào thế giới hư ảo mà mình vốn ít hoặc không quan tâm đến. Dù rằng tứ tuyệt Trần Mạnh Hảo có cả Thiền, tôn giáo, triết học… Một loạt các bài: Đừng sợ, Lá vàng rơi, Thiền cây, Thiền không, Cõi Phật, Tiên Phật, Giáng sinh, Hỏi Phật Di Lặc… đi thẳng vào vấn đề tưởng chừng như để chiêm bái một triết thuyết, nhưng đấy lại là cái cớ để bàn chuyện đời, ra ngoài ý nghĩa tôn giáo:
Em biết Phật Thiền xưa lạ thật
Nghìn năm ngài tọa một mình thôi
Đôi ta trên cỏ hiền như Phật
Đắc đạo nằm trong chỗ Phật ngồi.
(Đắc đạo)
Nhà văn Võ Văn Luyến (Tác giả bài viết)
Có lẽ trong thế giới siêu nghiệm, những “đốn ngộ”, “thái hư”, “niết bàn”, “trí huệ”, “sắc không” … được các nhà thơ Thiền thể hiện dường như quá đủ, hoặc nhận thức luận trong những trạng huống tâm đắc như để ru mình là chủ yếu chứ chẳng nghĩ thêm được gì mới hơn bởi tính khái quát của tư tưởng. Nhà nghệ sĩ vốn không như cách nhà khoa học, Trần Mạnh Hảo không biện luận điều gì nhưng con đường mà ông theo đuổi là đời, là thơ chứ không phải cõi “thái hư” nào cả. Nói đúng hơn, nếu có thì đấy là mô thức tôn – giáo – trần – thế mà câu kinh là trang sách cuộc đời đầy quyến rũ.
Có một điều này, đọc thơ của nhiều người, ta thấy dường như họ “phát ngôn” theo kiểu của sự thông minh nghiệm ra bao điều trong cuộc sống của mình và quanh mình, tất nhiên là theo lối dẫn của tư duy thơ, kiểu như là định nghĩa. Còn Trần Mạnh Hảo thì không tự lừa mình hay tỏ ra “đến điều” đủ thứ:
Cái anh gọi vô tri
Chính là điều chưa biết
(Anh và cuội)
Nói được điều “chưa biết” ấy là “sự tự biết”, mà cái tự biết mình không dễ như chúng ta nghĩ, nhân loại còn phải phấn đấu nhiều lắm, điều mà Xocrat đã từng nhắn nhủ.
Khi Kha Luân Bố tìm ra một vùng đất
mà ông gọi nhầm là Ấn Độ
Ông chưa biết vùng đất kia là nửa tinh cầu
Em là nửa sau vầng trăng tôi có nhầm là vùng nhớ
Tôi chưa đến được vùng đất này như Kha Luân Bố xưa đâu
(Kha Luân Bố và tôi)
Đặc điểm trên có thể lý giải bằng môi trường sáng tạo của nhà thơ. Thuộc lớp nhà thơ trưởng thành trong chống Mỹ, Trần Mạnh Hảo cũng từ “bạch diện thư sinh”, “gác bút nghiên theo việc đao cung”, trang sách là cuộc đời tắm mình trong máu lửa chiến tranh, câu thơ cũng sinh ra từ đó và nhà thơ có khi như “con cò tập viết” tự vẽ mình lên trời xanh. Dễ hiểu vì sao đất nước đã yên tiếng súng, nhà thơ lại lắng nghe những thanh âm xao xuyến, ấm áp quanh mình, dù đó không thiếu nắng mưa cuộc đời dội xuống. Triết – học – đời – sống của Trần Mạnh Hảo giản dị mà chất chứa trải nghiệm không phải ai khác, không từ đâu vận vào mà từ chính mình bước ra. Nhà thơ “tự ru” nhưng lại là tự chứng lẽ đời:
Dường như biển rộng sông dài
Dồn vào một sợi tóc mai trên đầu
(Tự ru)
Với 176 bài tứ tuyệt trong tập thơ cùng tên của mình, Trần Mạnh Hảo đã góp phần khẳng định thể tứ tuyệt vẫn đang “lên đường” hứa hẹn nhiều hi vọng, nhiều thành tựu hơn nữa đối với thể loại này.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.